Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015
- 12:15
- Unknown
- No comments
Tứ trụ triều đình ai đi ai ở sau Đại hội Đảng 12? Từ trái: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang.
Năm 2015 đã khép lại, nhưng tình hình chính trị Việt Nam vẫn đang nóng, cái nóng kéo dài từ đầu năm với cái chết không rõ nguyên do của Nguyễn Bá Thanh, Trưởng ban Nội chính Trung ương. Cơn sốt chính trị sẽ còn kéo dài cho đến hết mùa đông vì những đấu đá trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam trước Đại hội Đảng XII, dự trù sẽ diễn ra vào tuần cuối tháng Giêng 2016.
Nguyễn Bá Thanh qua đời đầu năm 2015, sau khi được chữa trị, vì cho là bị nhiễm phóng xạ, ở Singapore rồi đưa sang Mỹ nhưng cũng không cứu được. Sau Nguyễn Bá Thanh đột tử là sự vắng mặt đầy nghi vấn của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cũng đã gây xôn xao dư luận một thời gian với nghi ngờ là đã có những thanh trừng nội bộ cho đến khi tướng Thanh tái xuất hiện.
Suốt năm qua đã có nhiều dấu chỉ cho thấy tranh giành quyền lực đã diễn ra. Từ đầu năm, Hội nghị 10 Ban Chấp hành Trung ương (BCHTƯ) Đảng có cuộc bỏ phiếu mức tín nhiệm các ủy viên Bộ Chính trị, theo sau cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội dành cho gần 50 lãnh đạo chính phủ và các bộ vào cuối năm 2014. Tuy nhiên, Hội nghị 13 BCHTƯ kết thúc hai tuần trước đây vẫn chưa sắp xếp được nhân sự lãnh đạo cho Đại hội Đảng XII.
Với tình hình Biển Đông cẳng thẳng trong nhiều năm qua, nhất là sau khi Trung Cộng đưa giàn khoan HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào mùa hè 2014, và với chính sách xoay trục của Mỹ về Đông Á, có những nhận định cho rằng giới lãnh đạo Việt Nam ngày nay chia làm hai phe: thân Trung Cộng và thân Hoa Kỳ.
Thân Trung Cộng thì quá rõ qua các chính sách của Hà Nội đưa ra từ sau Hội nghị Thành Đô năm 1990, với vô số dự án kinh tế, phát triển hạ tầng cơ sở tại Việt Nam do người Hoa làm chủ.
Chủ trương thân Hoa Kỳ nói riêng và thân phương Tây nói chung còn như mờ ảo trong chính trường Việt Nam.
Nếu cho rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, với cô con gái lấy chồng Việt kiều Mỹ là con của một cựu thứ trưởng Việt Nam Cộng hòa, là người có chủ trương thân Mỹ thì đó là một lầm lẫn. Nếu ông Dũng thực sự thân Mỹ, trong hai nhiệm kỳ vừa qua ông đã có thể làm được nhiều điều để chứng tỏ, như đưa ra những cải cách luật pháp cho phù hợp với xu thế thời đại, thả hết những người bất đồng chính kiến bị giam tù. Nhưng ông Dũng đã không làm như thế.
Ông Dũng từng khuyên lãnh đạo Myanmar cải cách chính trị và trong vài năm qua lãnh đạo của đất nước này đã làm được để đưa Myanmar lên đường dân chủ hóa. Còn ông Dũng đã không làm được gì cho Việt Nam, trái lại trong mười năm ông nắm chức thủ tướng, Việt Nam tiếp tục tụt hậu so với các nước láng giềng trong khu vực vì kinh tế quốc doanh, tham nhũng tiếp tục lan tràn và chính sách cai trị độc tài với nhiều người bất đồng chính kiến bị bắt giam và kết án tù. Bộ Luật Hình sự Việt Nam chưa có sửa đổi gì liên quan đến các Điều 79, 88 và 258 – tức là những điều thường được dùng để bắt giữ và truy tố những người có quan điểm bất đồng với Nhà nước. Những luật mới về báo chí, luật về biểu tình vẫn chưa được ban hành.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rõ ràng là người cực kỳ bảo thủ. Ông kiên quyết đưa đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa dù “chẳng biết nó sẽ như thế nào”. Ông đã được đón tiếp trọng thị tại Hoa Kỳ trong năm nay, ông cũng đã đi thăm nhiều nước tư bản nhưng không học hỏi được gì để giúp kinh tế Việt Nam phát triển nhanh hơn hiện tại. Với chủ trương của Đảng Cộng sản do ông lãnh đạo, Việt Nam trong những năm qua đã - và rất có thể trong những năm tới sẽ tiếp tục - sản xuất ra nhiều tiến sĩ có khả năng trí tuệ chỉ để củng cố, bảo vệ và phát triển đảng hơn là phát triển đất nước.
Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang được xem là có khuynh hướng cải cách chính trị và thân Hoa Kỳ hơn cả. Những người được cho là có đồng quan điểm với ông Sang là giáo sư Tương Lai Nguyễn Phước Tường và nhà báo Nguyễn Công Khế, cựu Tổng Biên tập báo Thanh Niên, đã viết bài quan điểm trên báo The New York Times đòi hỏi một nền báo chí độc lập và sinh hoạt chính trị đa nguyên cho Việt Nam. Giáo sư Tương Lai từng làm cố vấn cho cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và trong những năm gần đây đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi tự do dân chủ cho Việt Nam.
Chính vì thế trong những ngày cuối năm 2015 hàng loạt tài liệu đã được tung ra tố cáo nhà báo Nguyễn Công Khế chiếm đoạt tài sản, kinh doanh bất chính, có con đã mua nhà và sống ở California. Ông Khế hiện không nắm chức vụ quan trọng nào trong chính quyền mà lại nằm trong tầm nhắm của đối thủ chính trị.
Như đã từng xảy ra trong những Đại hội Đảng trước, “Tứ trụ triều đình” không thể nào tránh khỏi bị tấn công, bêu xấu. Đọc những tài liệu về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, nhân vật có thể được chọn làm thủ tướng tại Đại hội Đảng XII sắp tới, không thể không quan ngại về khả năng lãnh đạo độc lập của Hà Nội.
Đầu tháng 11 vừa qua Chủ tịch Trung Cộng Tập Cận Bình đã sang thăm Hà Nội, đọc diễn văn trước Quốc hội Việt Nam. Tuần trước, chuyến đi Trung Cộng gấp rút của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng là dấu chỉ Bắc Kinh có ảnh hưởng đến việc chọn lựa lãnh đạo sắp tới tại Đại hội XII, vì ông Hùng đã được mời sang thăm Trung Cộng nhiều lần trước đây, nhưng ông chưa đi mà lại chọn sang thăm vào đúng thời điểm này.
Trong khi đó, trên mạng thông tin điện tử anhbasam.wordpress.com đã xuất hiện nhiều tố cáo lẫn nhau như một bức thư được cho là của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị để giải trình những tố cáo sai phạm của ông và người thân, thư được cho là của Trương Văn Quy đòi kiểm tra tài sản của gia đình Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, và những tài liệu tố cáo Nguyễn Công Khế.
Thật khó kiểm chứng những thông tin được liên tục đưa lên mạng nhằm nói xấu đối thủ.
Nhưng khi Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh và Thứ trưởng Bộ Truyền thông và Thông tin Trương Minh Tuấn phải lên tiếng về những bí mật trong số tài liệu được phổ biến và yêu cầu mở điều tra về những nguồn tin mật được đưa ra thì giới quan sát tình hình chính trị Việt Nam đồng ý rằng đã có những sự thật được phơi bày.
Trước thềm Đại hội Đảng XII, cuộc bày binh bố trận đến nay cho thấy Trung Cộng vẫn tìm cách gây ảnh hưởng vào chính trường Việt Nam.
Tình hình ngày nay căng thẳng giống như trước Đại hội Đảng VII năm 1991. Sau 5 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh tế được Đại hội VI đề ra năm 1986, phe cải cách muốn tiến nhanh hơn trong việc đưa Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của Bắc Kinh. Nhưng trước những biến động ở Đông Âu và Liên Xô, phe giáo điều kiên định với quan điểm Mác-Lê được Trung Cộng ủng hộ đã thắng thế và đưa Đỗ Mười lên làm Tổng Bí thư.
Mô hình phát triển theo đường lối như Trung Cộng đã được Hà Nội chọn từ đó, tức là con đường phát triển kinh tế nhưng giữ độc quyền chính trị. Mọi tiếng nói đối lập, kêu gọi dân chủ đa nguyên đều bị dập tắt và trừng trị bằng những bản án tù.
Sau Đỗ Mười là Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và bây giờ là Nguyễn Phú Trọng đều có quan điểm cực kỳ bảo thủ giáo điều.
Nhiều người hy vọng sẽ có thay đổi tại Đại hội XII để đưa Việt Nam vào con đường dân chủ. Nhưng hy vọng này còn rất mong manh vì quan hệ Việt-Trung đã được nối lại 25 năm, trong khi quan hệ Việt-Mỹ mới được 20 năm và còn quá nhiều nghi ngờ lẫn nhau vì quá khứ thù nghịch kéo dài và khác biệt về hệ tư tưởng chính trị.
Năm 2015 Hoa Kỳ đã đón tiếp nhiều lãnh đạo Việt Nam sang thăm, từ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đến Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang. Hai nước đã cam kết tôn trọng chế độ chính trị của nhau.
Nhưng Hà Nội chưa hết nghi ngờ âm mưu “diễn biến hòa bình” của Mỹ, đơn giản là để phát triển kinh tế hơn nữa, theo lộ đồ trong các hiệp ước thương mại mà Việt Nam đã ký kết, thì cần cải cách chính trị. Mà theo mô hình của Trung Cộng, Hà Nội lại không muốn cải cách chính trị.
Ba mươi năm sau đổi mới, năm 2016 Việt Nam lại đang ở ngã ba đường. Chọn lựa tại Đại hội Đảng XII sắp tới sẽ định hướng tương lai của đất nước.
Bùi Văn Phú
- 11:22
- Unknown
- No comments
Trong buổi tối giá lạnh của mùa Đông El Nino, chợt cảm thấy tâm hồn như chùng xuống, mặc dầu mới tuần trước đây, cùng với vài tỷ người mừng kính Thiên Chúa giáng trần để cứu nhân loại. Điều làm cho tâm bất an là tuy Tin Mừng mà Thiên Chúa mang xuống trần gian đem lại cho người ta nhiều hy vọng, nhưng thực tế, nhìn chung quanh vẫn thấy con người vẫn chìm trong khổ đau, sự Ác vẫn hiện diện một cách trắng trợn và người ngay lành vẫn bị chà đạp, bị giết một cách thảm thương. Thiên hạ vẫn giết lẫn nhau vì tình, vì tiền hay vì tư thù; kẻ ác vẫn cắt cổ người lương thiện, kẻ có vũ khí và quyền lực trong tay vẫn chà đạp lên nhu cầu Sống Bình An của con người, các nhà lãnh đạo độc tài vẫn bao vây tư tưởng, vẫn cấm đoán người dân phát biểu theo ý mình. Vậy, sự kiện Thiên Chúa hạ sinh có phải là một thất bại không? Chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa có phải là một ảo tưởng của Người Cha nhân từ, muốn cứu con cái mình, nhưng lực bất tòng tâm không?
Câu hỏi này, hình như khó nhận được câu trả lời thích ứng, cho nên, số người tin theo đạo Chúa, mỗi ngày mỗi vơi. Nhiều nhà thờ đóng cửa. Nhiều địa hạt Công Giáo khai phá sản. Người đi tu thì ít hơn người bỏ tu hoặc vẫn còn tu nhưng đi chệch hướng với đường đi của Thiên Chúa. Nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội sống lơ là, mũ ni che tai, lo xây nhà thờ to lớn, mặc cho tiếng thở vất vả trong đời sống tối tăm của con chiên vẫn đều đặn bên tai mình. Nếu cứ đà diễn tiến này, thì chẳng bao lâu nữa, đạo Chúa hay ngay cả các Tôn Giáo hiền hòa khác sẽ trở thành những kỷ niệm truyền thống của nhân loại vào thập kỷ 3000. Người ta sẽ không còn tin theo một tôn giáo nào nữa, mà chỉ tin vào sức mạnh của chính mình. Lúc đó, thế giới sẽ thành một nơi hỗn mang, man rợ như những thế kỷ đầu tiên của con người Neanderthals, đã biến mất khoảng 40,000 năm trước đây.
Nhưng thực tế có phải bi quan như thế không?
Câu hỏi này, hình như khó nhận được câu trả lời thích ứng, cho nên, số người tin theo đạo Chúa, mỗi ngày mỗi vơi. Nhiều nhà thờ đóng cửa. Nhiều địa hạt Công Giáo khai phá sản. Người đi tu thì ít hơn người bỏ tu hoặc vẫn còn tu nhưng đi chệch hướng với đường đi của Thiên Chúa. Nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội sống lơ là, mũ ni che tai, lo xây nhà thờ to lớn, mặc cho tiếng thở vất vả trong đời sống tối tăm của con chiên vẫn đều đặn bên tai mình. Nếu cứ đà diễn tiến này, thì chẳng bao lâu nữa, đạo Chúa hay ngay cả các Tôn Giáo hiền hòa khác sẽ trở thành những kỷ niệm truyền thống của nhân loại vào thập kỷ 3000. Người ta sẽ không còn tin theo một tôn giáo nào nữa, mà chỉ tin vào sức mạnh của chính mình. Lúc đó, thế giới sẽ thành một nơi hỗn mang, man rợ như những thế kỷ đầu tiên của con người Neanderthals, đã biến mất khoảng 40,000 năm trước đây.
Nhưng thực tế có phải bi quan như thế không?
Có hai loại khổ đau: khổ đau chủ quan (hay khổ đau nội tại) và khổ đau khách quan (hay khổ đau ngoại xâm). Khổ đau chủ quan đến tự nội tâm của chính con người. Có những người luôn sống bằng ảo vọng, bằng sự mê say, ham thích những điều vượt quá tầm tay của mình nên lúc nào cũng thấy khổ. Học ít, đi làm lương kém, nhìn thấy bạn bè hay những người khác giầu sang thì cảm thấy khổ. Yêu người không yêu mình thì đau buốt tim gan. Có con cái hư hỏng vì lỗi của mình không giáo dục đến nơi đến chốn thì chán nản. Ăn uống không điều độ sinh bệnh tật thấy đau đớn cả ngày. Đôi khi ăn chay trường, sống hiền hòa mà bỗng dưng mắc bệnh, thì bất mãn với ông Trời. Bố mẹ bất tài, nghèo khổ, làm con cái khổ theo. Cũng có những trường hợp dồi dào khả năng, chịu thương chịu khó, nhưng số kiếp vất vả, làm hoài không khá, thì kêu “Trời ơi! Sao nhẫn tâm đến thế?” Dân gian mình thường hay nói: Người ấy nghèo khổ quá! “Nghèo” thì luôn đi đôi với “Khổ”! Đó là những cái Khổ đau nội tại, phát sinh từ chính tư tưởng của mình rồi chi phối hành động của con người, làm cho người ta thấy Khổ.
Nhưng thật ra, có sự Khổ nội tại như thế không? Giả dụ những người Khổ đau đó mà ở chung với nhau trong cùng một môi trường, mỗi người có một nỗi khổ của mình, thì có thấy Khổ không? Thưa: Không! Tình cảm Khổ Đau chỉ xuất hiện khi có một đối tượng khác không Khổ đau đứng gần, thì mới có sự SO SÁNH giữa sự thiếu thốn của mình với sự đầy đủ của người khác, thì mình mới thấy khổ! Có những cô lái đò, áo quần khâu vá chằng đụp, suốt ngày vất vả nhưng lúc nào cũng có nụ cười trên môi vì quan niệm của người ấy là “biết đủ là đủ” (Tri túc, tiện túc, hà thời túc). Cô lái đò không so sánh mình với ai, nên lúc nào cũng vui. Những người khác, một khi đã thấm nhuần một Chân Lý mà Đức Phật đã chỉ ra: SINH, LÃO, BỆNH, TỬ! Bốn cái Khổ mà con người không thể tránh được, thì sẽ không thấy Khổ, nhất là nếu biết “diệt” cái “dục” tức là lòng muốn của mình đi, cũng sẽ không bao giờ biết đến chữ Khổ nữa. Như vậy, Khổ Đau chỉ là một tư tưởng nẩy sinh khi có sự So Sánh, Đối Chiếu mà thôi. Nếu nhân loại không So Sánh, Đối Chiếu với bất cứ ai, thì sẽ không bao giờ nghĩ rằng mình Khổ!
Còn Khổ Đau Khách Quan (hay Khổ Đau Ngoại Xâm) đến từ bên ngoài con người đập thẳng vào trái tim nhân loại. Khổ đau khách quan đến từ những tổ chức, những cá nhân không còn nhân tính, lúc nào cũng muốn áp đặt sức mạnh thô bạo, ác độc của mình lên những con người yếu đuối, không vũ trang, để thể hiện quyền uy của mình, để cho thiên hạ sợ mà phải thờ kính mình. Từ vị trí được tôn sùng, mà kẻ ác thấy hạnh phúc, thứ hạnh phúc vị kỷ mà người lương thiện lại thấy là gớm ghiếc. Ở chỗ nào có đất, có con người, mà ý niệm Tự Do, Nhân Quyền không được kẻ ác có vũ khí chấp nhận, ở nơi đó, con người bị đàn áp, bị đánh đập, giam giữ, thậm chí bị giết, bị cắt cổ, bị ăn bom đạn.
Đời sống con người ở những nơi này thật vô nghĩa. Như ở Việt Nam, nhà cầm quyền ỷ vào bạo lực của mình mà áp đặt một chế độ phi nhân bản, một chế độ vô cảm với hạnh phúc của con người, một chế độ của Những Con Người Lãnh Đạo Robot, không có tư duy, chỉ cử động theo những chương trình cài đặt (program) đòi ăn, ngủ, vệ sinh, tiêu tiền, làm tình, nói láo, kiếm tiền thật nhiều cho dù phải bán cả Tổ quốc của mình, bất chấp danh dự, nhân phẩm, và giá trị của một con người. Nói theo kiểu bình dân, những lãnh đạo Cộng Sản là những động vật chỉ biết đớp, hít, hưởng thụ và tiêu hóa, ngoài ra không có một chút giá trị gì của một con người. Nếu so sánh những kẻ lãnh đạo đó với những động vật có tình cảm khác, thì lãnh đạo Cộng Sản còn thua những con chó trung thành, liều chết bảo vệ chủ nhà mà người ta từng tạc tượng và quý mến.
Vậy, nếu muốn thoát khỏi khổ đau khách quan như thế, con người phải tìm cách thoát khỏi cái guồng máy đó, phải tìm cách bứt dây chuyền, phá tan cái động cơ ép con người đứng vào dây chuyền robot ấy, nghĩa là phải lật đổ cái chế độ phi nhân, vô cảm ấy thì mới hết được Khổ đau. Ngoài ra không còn biện pháp nào khác. Những đề nghị như “người hải ngoại phải tự nguyện kêu gọi Hòa Giải Hòa Hợp với chế độ Cộng Sản” hoặc “phải về nước xây dựng trước rồi mới thay đổi chế độ chính trị sau” là những đề nghị xuẩn ngốc của những cái máy robot khác ở hải ngoại, được cài đặt những chương trình tiêu thụ và tiêu hóa, nhưng không được cài cái “Tâm” của Nhân Loại.
Đến đây, thì một vấn đề khác nẩy sinh: khi sức lực Trần Thế của con người có giới hạn, thì phải nhờ đến một nguồn lực Siêu Nhiên: Thiên Chúa (hay Thượng Đế, ông Trời), là những Lực đã tác tạo ra con người hôm nay. Con người, trong cơn đau khổ, không thể oán trách Thiên Chúa là đã bỏ lơ loài người, vì thực tế, Thiên Chúa đã cho con người có Tự do suy nghĩ và hành động, nhưng Thiên Chúa không tạo ra chiến tranh, không khuyến khích bạo lực, và chẳng bao giờ hướng dẫn con người vào chỗ Đau Khổ! Chúa Giê Su nói: “Ta đến để đem sự sống vĩnh cửu cho trần thế!” nhưng chính con người đã giết Ngài, đã đánh đập Ngài, và treo Ngài lên thập giá. Từ đó, sự Ác cứ càng ngày càng phát triển một cách khủng khiếp. Trước khi Ngài xuống thế, tội ác đã dẫy đầy nhưng không tràn lan với một cường độ kinh hãi như sau khi Ngài lên trời. Những cuộc chiến sau này nổ ra với số người chết cả năm, sáu chục triệu, đẩy ra các bệnh dịch cũng chết cả chục triệu người và trong tương lai, một trận chiến bằng nguyên tử lực có thể tiêu diệt cả trái đất!
Để đối phó với tai họa khổ đau ghê gớm như thế, chỉ còn cách làm Lành, lánh Dữ, và cầu nguyện. Làm chuyện Lành với những ai đau khổ bên mình, nhất là với những người Dân Oan trong nước. Làm chuyện trả ơn với những Thương Phế Binh bên nhà là những người đã hy sinh một phần thân thể cho lịch sử, cho Tổ Quốc. Và, cầu nguyện với hết cả tâm hồn của một người lương thiện, thì lúc đó, may ra Thiên Chúa mới động tâm mà giải tỏa nỗi khổ đau chập chùng của Dân Việt và đẩy nhóm lãnh đạo Cộng Sản “hèn với giặc, ác với dân” kia ra khỏi giang sơn mình, như lần Chúa Giê Su đã làm là đuổi bọn quỷ dữ ra khỏi thân xác của một người và nhập vào đàn heo, rồi cùng nhào xuống biển…
Chu Tất Tiến
Thứ Tư, 30 tháng 12, 2015
- 16:29
- Unknown
- No comments
Ðang trên Quảng Trường Ðỏ ở Moscow, tôi chựng người lại khi bắt gặp một hình dáng người rất quen mà không thể nhớ liền được là ai? Người đàn ông thấp người, mặc bộ đồ đại lễ, đầu đội chiếc mũ kếp pi - tất cả cùng màu đen, đút tay vào túi quần với khuôn mặt trầm tư...
Cảnh chợ trời nhếch nhác ngoại ô Mosow.
Bắt gặp cái nhìn của du khách, ông liền nở nụ cười, giơ tay vẫy vẫy mời chào: “Chụp hình kỷ niệm đi. Chỉ 100 rub thôi, hay $2 đô la Mỹ cũng được!”
Tôi vừa lắc đầu vừa phá lên cười vì nhận ra người “quen quen” ấy: Lenin. Hiển nhiên, chính xác hơn, là người đóng vai Lenin.
Tôi vừa lắc đầu vừa phá lên cười vì nhận ra người “quen quen” ấy: Lenin. Hiển nhiên, chính xác hơn, là người đóng vai Lenin.
Trong thời gian lang thang xung quanh điện Kremlin, tôi còn gặp mấy “Lenin” nữa, cũng đang mời chào du khách chụp hình. Tự nhiên tôi liên tưởng đến câu đầu tiên trong “Tuyên Ngôn Ðảng Cộng Sản: “Một bóng ma đang ám ảnh Châu Âu: Bóng ma Chủ Nghĩa Cộng Sản.”
Chẳng những không chỉ Lenin thôi mà tại Quảng Trường Ðỏ - biểu tượng của nước Nga - du khách còn gặp được vô số nhân vật nổi tiếng, những vị vua chúa của Nga thời xưa, như Groznyi Ðại Ðế, Nữ Hoàng Ekaterina Ðệ Nhị, và cả lãnh tụ Soviet sắt máu sau này như Stalin...
Người Nga ngày nay không chỉ bị ảnh hưởng của học thuyết Cộng Sản lỗi thời (dầu đã cố thoát khỏi nó), họ mang cả tâm lý của một quốc gia từng là đại cường, muốn phục hồi với mong mỏi khôi phục lại đế chế Nga hùng mạnh, cho dầu dưới một tên gọi khác. Các phương tiện truyền thông thế giới phần lớn đang mô tả nước Nga như một quốc gia hung hãn đang bị cô lập, cấm vận và kiệt quệ... Vậy thật sự nước Nga hiện tại ra sao?
Tôi trở lại thăm Nga sau 7 năm, ngạc nhiên bởi những đổi thay của nó. Nếu chỉ nhìn bề ngoài thôi thì có vẻ hầu như tất cả đã đẹp hơn, lịch sự hơn, tốt hơn rất nhiều. Những đại lộ giữa Moscow với cả gần chục lanes mỗi chiều, những cao ốc kính lấp lánh không khác gì tại các downtown của các đô thị của Mỹ, những dãy cửa hàng sang trọng tập trung tất cả các nhãn hiệu thời trang danh tiếng thế giới, những siêu thị thực phẩm đầy ắp thức ăn...
Không còn cảnh dày đặc cảnh sát vũ trang mang áo giáp lăm lăm súng tiểu liên trên mỗi góc phố như trước kia. Cảnh sát giao thông cũng vắng bóng, các camera giám sát giao thông dày đặc, phiếu phạt được gửi về theo bưu điện kèm theo hình ảnh chứng minh.
Không còn thấy cảnh các nhóm đầu trọc hung hãn quấy rầy du khách. Giới trẻ dùng tiếng Anh phổ thông hơn trong giao tiếp...
Nếu đến nước Nga vào khoảng thời gian Tháng Chín, du khách sẽ cảm thấy một nước Nga thật thơ mộng. Cuối Thu nhưng trời chưa quá lạnh vì đang “mùa Hè rớt,” nắng vẫn lấp lánh trên những nóc giáo đường dát vàng rực rỡ. Cái lạnh chỉ đủ để khoác lên người chiếc jacket mỏng làm dáng. Khắp nơi, mọi chốn hầu như chỉ một màu vàng, của cây cỏ, của thiên nhiên.
Lang thang trên các nẻo đường, góc phố Moscow hay Saint Petersburg, du khách ngỡ ngàng bởi kiến trúc cổ kính, những giáo đường lộng lẫy, những con sông uốn mình soi bóng những lâu đài trầm mặc...
Lãnh tụ Lenin lăn lóc dưới đất cùng nồi niêu, xoong chảo.
Không những bị mê hoặc bởi sắc đẹp của thiên nhiên và kiến trúc, du khách sẽ còn “mê” nước Nga hơn vì giá cả hiện nay đều... quá rẻ, khi quy tiền Nga ra tiền Ðô La. ($1 đổi được khoảng 66 rub).
Vé tàu điện ngầm tại S. Petersburg là 30 rub (tức chỉ gần 50 xu Mỹ) cho 1 lần đi không giới hạn khoảng cách. Vé một ngày ở Moscow là 200 rub (khoảng $3), không giới hạn số lần sử dụng.
Thịt bò loại ngon khoảng $5/kg. Có cả crawfish (còn tươi, sống, loại to khoảng 10 con/kg giá $9. Loại nhỏ hơn khoảng $6/kg). Giá bia rượu khoảng bằng một nửa so với Mỹ, ngoại trừ một số đồ nhập khẩu. Giá dịch vụ ăn uống cũng vậy. Với khoảng $20-$30 trong túi, du khách có thể tự cho phép mình ghé hầu như mọi quán sang trọng ở trung tâm, ngồi nhâm nhi bia rượu với đồ nhắm mà không phải lo nghĩ nhìn vào giá ở... menu. Nếu chỉ quanh quẩn ở Moscow, St. Petersburg hay vài thành phố lớn nữa thì, đối với du khách, nước Nga quả là “tuyệt vời.”
Ðúng, nước Nga thật tuyệt vời, nhưng chỉ đối với du khách!
Tôi theo một người bạn đến thành phố Lipesk, cách Moscow khoảng 500 km về phía Nam.
Ðây là thành phố công nghiệp có tiếng ở Nga với những building kiến trúc thô kệch mà ngay cả người Nga cũng phải thốt lên là “quái thai.”
Ngay trong thành phố vẫn có những con đường lầm bụi, chi chít ổ gà như trong thời chiến tranh khiến xe không thể tránh mà chỉ có thể cố điều khiển làm sao cho bánh xe rơi xuống hố một cách... nhẹ nhàng nhất. Mới sáng Thứ Hai đầu tuần mà trên bến xe bus ngay trung tâm thành phố đã có người say rượu nằm sóng soài ngay trên lề đường. Khác hẳn với vẻ mặt rạng rỡ, viên mãn của người Moscow hay St. Petersburg, con người Lipetsk trông khắc khổ, ủ dột, đậm nỗi suy tư... Tôi thắc mắc với người bạn (là người Nga) sao không thấy cô gái đẹp nào trên đường phố. Anh trả lời, vừa chua chát, vừa phóng đại: “Gái đẹp lên Moscow làm điếm hết rồi!”
Chúng tôi ghé vào một công sở, nơi chuyên cung cấp giấy phép cho các doanh nghiệp toàn Lipetsk và vùng lân cận. Vào toilet thì thấy chiếc “xí xổm” (tức loại ngồi chồm hổm, vốn rất thịnh hành ở Việt Nam thời xa xưa), không có giấy toilet, không có xà bông rửa tay, nhưng lại có... chén bột giặt! Tôi mang điều này ra kể cho người bạn Nga, anh ta lại một lần nữa nhún vai: “May mà còn có chỗ để đái.”
Cờ nhung, nội dung “dưới ngọn cờ của Chủ Nghĩa Marx-Lenin, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản, tiến lên tới chiến thắng của Chủ Nghĩa Cộng Sản,” cũng ra chợ trời luôn.
Mà cần gì phải đi xa đến 500 km, chỉ cần ra khỏi Moscow là đã thấy một bức tranh hoàn toàn khác với sự lộng lẫy, hào nhoáng của thủ đô nước Nga.
Một hôm, tôi đi chợ trời nằm tại thành phố nhỏ Khimki, cách Moscow khoảng 80 km. Ở đây đường phố đã hẹp hẳn, những ngôi nhà gỗ xiêu vẹo, hoang tàn... Khác với chợ trời Mỹ quy củ trên những sân vận động hay bãi đậu xe của các trường học, chợ trời ở Nga được họp trên một mảnh đất hoang đầy bụi, khấp khểnh sỏi đá... Phong cách nhếch nhác, hàng hóa nhếch nhác, người bán cũng nhếch nhác... Chợ trời Mỹ hầu như người bán là chuyên nghiệp, nguồn hàng thường là từ những người không còn nhu cầu sử dụng nữa, trong đó có cả đồ mới toanh. Còn ở Nga phần lớn người bán nghiệp dư, mang những thứ mình đang dùng ra bán, vì túng tiền.
Tôi thật sự đau lòng khi nhìn thấy một bà cụ người Nga đứng rao bán những chiếc túi ni lon đã cũ, đã sử dụng. Nhìn trang phục và nét mặt khắc khổ của bà, tôi hiểu những chiếc túi cũ này là nguồn thu nhập chính cho cuộc sống của bà và tôi đã rất ân hận về sau khi tự dằn vặt mình là sao không mua giùm bà vài cái.
Ði chợ trời chủ yếu là để quan sát chứ không có nhu cầu mua sắm nên tôi thường đứng lâu ở một nơi, đảo mắt nhìn xung quanh. Một phụ nữ đứng tuổi đứng rao chào bán loại keo dính kim loại, một hộp chỉ 15 rub mà mãi không có khách mua. Tôi nhẩm tính phải bán được hơn 4 chai mới được $1. Vậy một ngày bà có thể bán được bao nhiêu chai để đủ sống? Thấy tôi chăm chú nhìn, bà quay sang cười hỏi: “Này, dân tộc Việt Nam, tìm cái gì ở đây thế?” Cả hai bắt chuyện, bà kể, trước đấy bà dạy trung cấp kỹ thuật, có dạy cả học sinh từ Việt Nam sang du học nữa. Chồng bà cũng dạy sinh viên Việt Nam. Hỏi về cuộc sống hiện tại, bà ngán ngẩm lắc đầu nói đồng lương hưu chết đói, “kiếm sống từng bữa chứ tương lai vô định không biết sẽ đi đến đâu.” Khi nghe tôi kể về nơi tôi từng học trước đây trên lãnh thổ Liên Xô (cũ), bà phẩy tay: “Ðó không phải là thành phố của chúng tao. Ðó không phải là Nga.” Câu nói của bà toát lên đặc trưng cố hữu của dân Nga: Tự kiêu về nguồn gốc của mình và tự ti vì cứ nghĩ rằng người ta không coi trọng mình.
Một điểm đặc biệt của chợ trời Nga là bày bán rất nhiều những gì thuộc về “tàn tích, tàn dư” thời Xô Viết. Chân dung các lãnh tụ Cộng Sản như Lenin, Kark Marx... nằm la liệt giữa những đống xoong nồi lủng củng, giữa đám đất lầm bụi... khiến người xem thoáng có những suy tưởng so sánh chua xót, mỉa mai và hài hước về lý tưởng cao xa và thực tế trần trụi.
Những lá cờ nhung màu đỏ thêu chỉ vàng ca ngợi về những thành quả của Chủ Nghĩa Xã Hội với những câu khẩu hiệu đanh thép, tự tin về sự bất diệt của Marx-Lenin... giờ nằm lăn lóc trên các tấm ni lông sơ sài đặt trên mặt đất. Một quá khứ đầy hoang tưởng.
Khi nghe lời thán phục về giá cả rẻ ở Nga, người bạn Nga bĩu môi: “Ðó chỉ là rẻ đối với dân du lịch có Ðô La Mỹ thôi chứ dân Nga khổ lắm. Bởi vì đồng lương nhận bằng rub hầu như vẫn vậy nhưng vật giá lại tăng theo sự lạm phát. Tuy vật giá tăng chưa bằng với mức độ mất giá của đồng rub, đối với dân chúng thì đó cũng là sự quá tải về ngân sách thu chi của gia đình. Ví dụ, trước khi bị Mỹ và Tây Phương cấm vận và giá dầu đang cao, 30 rub đổi được $1, còn giờ đây thì phải gần 66 rub mới được $1. Giá cả thiết yếu tăng ít nhất 30% nên mới có nghịch lý “du khách thì rẻ, người Nga thì đắt.” Sự mất giá của đồng rub quả là cơn ác mộng của người bản xứ.
Người đóng giả các nhân vật nổi tiếng để kiếm sống. Cô gái đóng vai nữ hoàng Nga, Ekaterina Ðệ Nhị, phía xa là Stalin, Quảng Trường Ðỏ.
Với một bề ngoài hào nhoáng, nước Nga đang vật lộn, trăn trở với thực tế khắc nghiệt, phũ phàng. Tổng thống Putin trong phát biểu trả lời phỏng vấn Thông Tấn Xã Nga, TASS, nói rằng việc đồng rub mất giá... có lợi cho ngân sách. Ông lý luận: “Trước đây chúng ta bán hàng, $1 thu về được 32 rub. Còn bây giờ cũng món hàng đó, $1 chúng ta thu được... 45 rub. Ngân sách được tăng lên chứ không phải là giảm đi!”
Có lẽ đây là phép trấn an dư luận và tự trấn an bản thân chứ hơn ai hết, ông Putin thừa biết Nga phải mất 10 năm phát triển kinh tế nữa mới vượt qua được khủng hoảng tài chính do cấm vận lúc này.
Phải khách quan mà nhận xét thì những biện pháp kích thích “lòng tự hào dân tộc” của chính phủ Nga hiện tại đã mang lại kết quả tích cực giúp dân Nga quên đi phần nào những khó khăn kinh tế.
Khi đi chợ trời ở Nga khoảng cuối Tháng Chín, lúc mặc cả mua một món đồ cổ, tôi trả giá bằng USD và nói là người bán sẽ có lợi khi giữ ngoại tệ vì đồng rub Nga mất giá từng ngày.
Người này hùng hồn trả lời: “Hãy chờ đấy, vài ngày nữa máy bay Nga sẽ ném bom Syria và đồng rub sẽ có giá trở lại!” Y như rằng, ngày 30 Tháng Chín, Nga tham chiến trên không tại Syria và đến giữa tháng 10 thì $1 đổi chỉ được còn khoảng 63 rub. Nhưng hiệu quả của sự “lên gân cơ bắp” bằng quân sự không giữ được lâu: Ðến Tháng Mười Hai, đồng rub tiếp tục đà mất giá. Một đô la đổi được đến 70 rub.
Trong bối cảnh bị phương Tây cấm vận, nước Nga đang gồng mình để tồn tại. Những biểu tượng búa liềm Xô Viết lại xuất hiện nhiều hơn trên những đường phố, tượng Kark Marx vẫn đứng sừng sững ngay sát Quảng Trường Ðỏ, một số tượng các lãnh tụ Xô Viết cũ được phục chế... Nước Nga đang lấy “hào quang” của quá khứ để trấn an hiện tại.
Giới chính trị Nga hiểu được tâm lý người Nga, và lợi dụng tâm lý ấy. Bản tính chung của người Nga là vừa giản dị đến dân dã (hay gọi là cục mịch cũng không sai), vừa rất đôn hậu.
Tôi nhớ mãi một buổi chiều ngồi trầm tư trong công viên nơi thi hào Pushkin từng ngồi để viết nên những bài thơ tình bất hủ thì một người đàn bà Nga đẩy xe nôi dẫn cháu đi dạo ngang qua. Bà dừng lại âu yếm nhắc tôi - một người ngoại quốc hoàn toàn xa lạ: “Cẩn thận, trời lạnh lắm, ngồi như vậy có thể bị cảm đấy!” Thật sự là tôi cảm động, sống mũi cay xè.
Tôi bỗng nhớ lại thời điểm đứng ở Quảng Trường Ðỏ, vỗ vai nói với người đóng giả Lenin:
“Nếu không có Lenin thật thì anh đã không phải làm Lenin giả để kiếm sống như vầy. Nước Nga xứng đáng nhiều lần hơn thế này.”
Phương Đoàn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)